Quân đội Hoa Kỳ

Quân đội Hoa Kỳ hay Các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ (United States armed forces) là tổng hợp các lực lượng quân sự thống nhất của Hoa Kỳ. Các lực lượng này gồm có Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục chiến, Không quân và Tuần duyên. Hoa Kỳ có một truyền thống dân sự kiểm soát quân sự mạnh mẽ. Trong lúc Tổng thống Hoa Kỳ là người lãnh đạo tổng thể về quân sự thì Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, một bộ hành chính liên bang, đóng vai trò là cơ quan chính nơi mà các chính sách quân sự được thực hiện. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ do Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ lãnh đạo. Bộ trưởng là một người thuộc giới dân sự và là một thành viên trong Nội các Hoa Kỳ. Bộ trưởng cũng phục vụ trong vai trò tư lệnh quân sự đứng thứ hai sau Tổng thống Hoa Kỳ. Để điều phối hành động quân sự với ngoại giao, Tổng thống Hoa Kỳ có một Hội đồng An ninh Quốc gia với một vị cố vấn an ninh quốc gia lãnh đạo để hội ý. Cả Tổng thống Hoa Kỳ và Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ được cố vấn bởi một Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ gồm sáu thành viên là lãnh đạo của các quân chủng. Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ do Tổng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ và Tổng tham mưu phó Liên quân Hoa Kỳ lãnh đạo. Tất cả năm quân chủng được đặt dưới quyền hướng dẫn của Bộ Quốc phòng, trừ Tuần duyên Hoa Kỳ được đặt dưới quyền của Bộ Nội an Hoa Kỳ vào năm 2003 sau khi có việc tái tổ chức chính phủ theo sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001. Tuần duyên Hoa Kỳ có thể được thuyên chuyển sang Bộ Hải quân Hoa Kỳ theo lệnh của Tổng thống hay Quốc hội Hoa Kỳ trong thời chiến.[4] Tất cả năm lực lượng vũ trang là trong số 7 lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ; hai lực lượng còn lại là Đoàn Ủy nhiệm Y tế Công cộng Hoa Kỳ và Đoàn Ủy nhiệm Quản trị Khí quyển và Đại dương Quốc gia. Từ lúc lập quốc, quân sự đã đóng vai trò quyết định trong lịch sử Hoa Kỳ. Ý nghĩa mang tính định hình và sự thống nhất quốc gia đã được hình thành từ các chiến thắng như các cuộc chiến chống hải tặc Barbary cũng như Chiến tranh 1812. Mặc dù vậy, những người sáng lập ra Hoa Kỳ vẫn nghi ngờ về một lực lượng quân sự thường trực (vì lo sợ một kẻ độc tài nào đó có thể dùng lực lượng quân sự để thao túng đất nước) cho đến khi Đệ nhị Thế chiến bùng nổ thì một quân đội hiện dịch lớn mạnh mới được chính thức thiết lập Đạo luật An ninh Quốc gia Hoa Kỳ 1947, được thông qua sau Đệ nhị Thế chiến và trong thời gian bắt đầu xảy ra Chiến tranh lạnh, đã tạo nên khung sườn cho Quân đội Hoa Kỳ hiện đại. Đạo luật này đã sát nhập các bộ cấp nội các là Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ và Bộ Hải quân Hoa Kỳ thành Tổ chức Quân sự Quốc gia (sau đó đổi tên thành Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ vào năm 1949). Đạo luật này cũng lập ra Bộ Không quân Hoa Kỳ (đặt dưới quyền của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ) và Hội đồng An ninh Quốc gia. Quân đội Hoa Kỳ là một trong các quân đội lớn nhất tính theo quân số, và ngang ngửa về quy mô với quân đội các nước lớn khác như Trung Quốc và Liên bang Nga[cần dẫn nguồn]. Nguồn nhân lực của Quân đội Hoa Kỳ là từ con số lớn những người tự nguyện phục vụ mặc dù chính sách quân dịch cũng từng được sử dụng nhiều lần trong quá khứ cả thời chiến cũng như thời bình nhưng nó đã không được dùng kể từ năm 1972. Tính đến năm 2010, Hoa Kỳ chi tiêu khoảng $692 tỉ đô la Mỹ mỗi năm để tài trợ cho các lực lượng quân sự của mình,[3] chiếm khoảng 42 phần trăm chi tiêu quân sự thế giới.[5] Tính chung, các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ sở hữu số lượng lớn các trang bị mạnh và tiên tiến mà giúp cho họ khả năng lớn cả về phòng thủ và tấn công. Bên cạnh đó, quân đội Hoa Kỳ cũng vướng phải nhiều chỉ trích và cáo buộc về những tội ác do họ thực hiện trong các cuộc chiến tranh hay chiếm đóng, đi kèm với đó là những vi phạm về nhân quyền Lịch sử Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1775, thậm chí trước khi Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ ra đời để đánh dấu việc thiết lập nên quốc gia Hoa Kỳ. Lục quân Lục địa, Hải quân Lục địa, và Thủy quân lục chiến Lục địa đã được thành lập khi kết thúc thành công Đệ nhị Quốc hội Lục địa để bảo vệ quốc gia non trẻ chống Đế quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Các lực lượng vũ trang này bị giải thể vào năm 1784 sau Hiệp định Paris (1783) kết thúc chiến tranh giành độc lập. Quốc hội Hợp bang thành lập Lục quân Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6 năm 1784, tuy nhiên trong một thời gian dài Hoa Kỳ không có một quân đội thường trực sẵn sàng chiến đấu. Việc thông qua Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 đã cho Quốc hội Hoa Kỳ quyền lực "xây dựng và hỗ trợ các lực lượng lục quân", "tạo ra và duy trì một lực lượng hải quân" và "tạo ra những luật lệ cho chính phủ và qui định đối với các lực lượng hải quân và bộ binh" cũng như quyền tuyên chiến và giao cho Tổng thống Hoa Kỳ trách nhiệm làm tổng tư lệnh quân đội. Các vụ căng thẳng gia tăng vào nhiều thời điểm khác nhau với Đế quốc Anh và Pháp qua Chiến tranh Quasi và Chiến tranh 1812 đã làm cho Hải quân Hoa Kỳ (thành lập vào ngày 13 tháng 10 năm 1775) và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (thành lập 10 tháng 11 năm 1775) phát triển nhanh chóng. Tuần duyên Hoa Kỳ có nguồn gốc từ việc thành lập Sở Quan thế Biển Hoa Kỳ (Revenue Cutter Service) năm 1790; cơ quan này được nhập với Sở Cứu cấp Nhân mạng Hoa Kỳ (United States Life-Saving Service) năm 1915 để thành lập Tuần duyên Hoa Kỳ. Không quân Hoa Kỳ được thành lập như một quân chủng độc lập vào năm 1947; nó có nguồn gốc từ việc thành lập Sư đoàn Không gian thuộc Binh chủng Truyền tin năm 1907 và là một bộ phận thuộc Lục quân Hoa Kỳ trước khi nó trở thành một quân chủng độc lập. Hoa Kỳ có ngân sách quốc phòng lớn nhất trên thế giới.[5] Năm ngân sách 2010, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ có ngân sách căn bản là $533,8 tỉ đô la Mỹ. Bộ quốc phòng xin thêm $130,0 tỉ đô la để dùng cho các hoạt động ở hải ngoại trong cuộc Chiến tranh chống khủng bố và xin thêm $33 tỉ đô la trọn năm để chi tiêu thêm cho việc tài trợ các hoạt động ở hải ngoại.[3][6][7] Ngoài chi tiêu trực tiếp của Bộ Quốc phòng, Hoa Kỳ còn chi tiêu thêm từ $218–262 tỉ hàng năm cho các chương trình có liên quan đến quốc phòng khác như chương trình phúc lợi cho cựu chiến binh, an ninh nội địa, bảo trì vũ khí hạt nhân, và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Theo quân chủng, $225,2 tỉ dành cho Lục quân Hoa Kỳ, $171,7 tỉ cho Hải quân Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, $160,5 tỉ cho Không quân Hoa Kỳ và $106,4 tỉ chi tiêu tổng quát cho quốc phòng.[8] Theo bộ phận chức năng, $154,2 tỉ cho nhân sự, $283,3 tỉ cho hoạt động và bảo trì, $140,1 tỉ chi tiêu cho trang thiết bị vũ khí, $79,1 tỉ nghiên cứu và phát tiển, $23,9 tỉ chi tiêu cho xây cất quân sự và $3,1 tỉ chi tiêu cho gia cư.[9] Năm ngân sách 2009, các chương trình quốc phòng chính cũng tiếp tục được tài trợ. $4,1 tỉ được dùng cho các phi cơ F-22 Raptor thế hệ mới với thêm 22 phi cơ xuất xưởng trong tài khóa 2009. $6,7 tỉ dùng cho phi cơ F-35 Lightning II vẫn đang được phát triển. 16 phi cơ sẽ được giao theo ngân sách này. Chương trình "hệ thống tác chiến tương lai" có thể tiêu tốn khoảng $3,6 tỉ dành cho phát triển nó. Tổng số $12,3 tỉ dùng cho phòng không chống tên lửa bao gồm các hệ thống phòng không "Patriot CAP", PAC-3 và SBIRS-High. $720 triệu cũng được chi tiêu để thiết lập một nơi phòng không chống tên lửa thứ ba ở châu Âu. $4,2 tỉ cũng được dùng để tiếp tục chương trình thay thế các hàng không mẫu hạm. Với sự thiết lập Bộ tư lệnh Hoa Kỳ ở châu Phi, $389 triệu được dùng để phát triển và duy trì bộ tư lệnh mới này

Đăng nhận xét