Lực lượng Tự vệ Nhật Bản

Lịch sử quân sự Nhật Bản mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới khi phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Rồi lên đến cực điểm trong hai cuộc thế chiến và cuối cùng kết thúc với sự kiện Nhật Bản đầu hàng quân Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Kể từ đó, hiến pháp Nhật Bản đã ngăn cấm việc sử dụng lực lượng quân sự để tiến hành chiến tranh với bất kỳ quốc gia nào khác. Ngoại trừ tính từ lúc quân Đồng Minh chiếm đóng Nhật Bản sau Thế chiến II, theo các tài liệu lịch sử ghi nhận thì đảo quốc Nhật Bản chưa bao giờ bị một thế lực ngoại xâm nào xâm chiếm thành công hoàn toàn Thời kỳ Hậu chiến[sửa] Sau một thời gian dài dưới sự chiếm đóng của Mỹ (1945-1952), Nhật Bản giành lại độc lập. Tuy nhiên theo Điều chín của Hiến pháp Nhật Bản, Nhật Bản bị cấm xây dựng quân đội thường trực hoặc tiến hành chiến tranh với bất cứ mục đích gì. Mặc dù hiến pháp Nhật Bản nói rằng "lực lượng hải, lục, không quân, cũng như tiềm năng chiến tranh khác, sẽ không bao giờ được duy trì," Tự vệ đội (自衛隊), hay Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản được thành lập ngay sau khi Mỹ kết thúc chiếm đóng Nhật Bản. Tự vệ đội là một trong những lực lượng vũ trang được trang bị công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới và chi phí quân sự của Nhật Bản đứng vào hàng cao nhất thứ bảy trên thế giới. Mặc dù Hiệp ước Hợp tác và An ninh lẫn nhau, ký kết vào năm 1960, cho phép sự hiện diện liên tục của các căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật Bản, hầu hết trong số đó đóng trên đảo Okinawa, mặc dù không có thỏa thuận chính thức nào cả buộc Nhật Bản phải chính thức dựa vào Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc, hoặc bất kỳ thế lực nào khác để bảo vệ đất nước mình. Hậu quả từ sự Chiếm đóng của Mỹ, cùng những nỗ lực của chính quyền Nhật Bản, đặc biệt là sự thúc đẩy của Hoa Kỳ, để sửa đổi Hiến pháp và tái vũ trang. Điều này đã được ngăn chặn bằng sự chống đối lại hành động này của một số nước từng bị quân đội Nhật xâm chiếm, và những tổ chức, đoàn thể chống chiến tranh nói chung, cùng với thái độ và những yếu tố quan trọng của chương trình nghị sự ttrong nội các chính phủ Nhật Bản. Năm 1967, Thủ tướng Eisaku Sato đưa ra ba nguyên tắc phi hạt nhân mà theo đó Nhật Bản sẽ chống lại việc sản xuất, hoặc sở hữu vũ khí hạt nhân. ý tưởng tương tự cũng được thể hiện nhiều năm sau đó chống lại việc sản xuất và xuất khẩu vũ khí quy ước. Nghị viện Nhật Bản hiện đang cân nhắc việc sửa đổi Hiến pháp sẽ bãi bỏ Điều Chín, và cho phép Nhật Bản một lần nữa có khả năng tái vũ trang quân sự. Trong lúc này, Nhật Bản đã triển khai Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản để hỗ trợ trong một số nhiệm vụ không chiến đấu, đặc biệt là những người có liên quan đến viện trợ nhân đạo, chẳng hạn như giúp đỡ các nạn nhân của trận động đất Kobe năm 1995, cung cấp hỗ trợ hành chính cho Lực lượng Lâm thời Liên Hiệp Quốc ở Liban ( UNIFIL) Tiểu đoàn Na Uy (NORBATT) trong những năm 1990, và giúp tái thiết lại Iraq. Một số quan chức Nhật Bản mong muốn có quân đội riêng của họ vì sợ sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc và sự thù địch của Bắc Triều Tiên. Họ tuyên bố rằng Hoa Kỳ đã không đủ sức mạnh và thẩm quyền giải quyết các vấn đề này, và do đó Nhật Bản phải tự xây dựng lực lượng riêng để bảo vệ chính mình trước những hiểm họa xung quanh. Năm 2004, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã công bố một kế hoạch mở rộng số ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, và Nhật Bản tìm cách đạt được một trong những chỗ ngồ nàyi. bất chấp sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị của Nhật Bản, một số cuộc tranh luận có hay không về một đất nước không có quân đội thường trực có thể được coi là một "cường quốc thế giới" mà cần phải có một ghế thường trực trong Hội đồng. tranh chấp lãnh thổ gần đây với các nước láng giềng như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, và Nga ở các quần đảo như Senkaku, Liancourt Rocks, và quần đảo Kuril, cũng như lời buộc tội về sự minh oan của Nhật Bản về vụ sách giáo khoa lịch sử gây tranh cãi khác nhau cũng làm quá trình này ngày càng thêm phức tạp.

Đăng nhận xét