Quân đội Hoa Kỳ hay Các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ (United States armed forces) là tổng hợp các lực lượng quân sự thống nhất của Hoa Kỳ. Các lực lượng này gồm có Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục chiến, Không quân và Tuần duyên.
Hoa Kỳ có một truyền thống dân sự kiểm soát quân sự mạnh mẽ. Trong lúc Tổng thống Hoa Kỳ là người lãnh đạo tổng thể về quân sự thì Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, một bộ hành chính liên bang, đóng vai trò là cơ quan chính nơi mà các chính sách quân sự được thực hiện. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ do Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ lãnh đạo. Bộ trưởng là một người thuộc giới dân sự và là một thành viên trong Nội các Hoa Kỳ. Bộ trưởng cũng phục vụ trong vai trò tư lệnh quân sự đứng thứ hai sau Tổng thống Hoa Kỳ. Để điều phối hành động quân sự với ngoại giao, Tổng thống Hoa Kỳ có một Hội đồng An ninh Quốc gia với một vị cố vấn an ninh quốc gia lãnh đạo để hội ý. Cả Tổng thống Hoa Kỳ và Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ được cố vấn bởi một Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ gồm sáu thành viên là lãnh đạo của các quân chủng. Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ do Tổng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ và Tổng tham mưu phó Liên quân Hoa Kỳ lãnh đạo.
Tất cả năm quân chủng được đặt dưới quyền hướng dẫn của Bộ Quốc phòng, trừ Tuần duyên Hoa Kỳ được đặt dưới quyền của Bộ Nội an Hoa Kỳ vào năm 2003 sau khi có việc tái tổ chức chính phủ theo sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001. Tuần duyên Hoa Kỳ có thể được thuyên chuyển sang Bộ Hải quân Hoa Kỳ theo lệnh của Tổng thống hay Quốc hội Hoa Kỳ trong thời chiến.[4] Tất cả năm lực lượng vũ trang là trong số 7 lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ; hai lực lượng còn lại là Đoàn Ủy nhiệm Y tế Công cộng Hoa Kỳ và Đoàn Ủy nhiệm Quản trị Khí quyển và Đại dương Quốc gia.
Từ lúc lập quốc, quân sự đã đóng vai trò quyết định trong lịch sử Hoa Kỳ. Ý nghĩa mang tính định hình và sự thống nhất quốc gia đã được hình thành từ các chiến thắng như các cuộc chiến chống hải tặc Barbary cũng như Chiến tranh 1812. Mặc dù vậy, những người sáng lập ra Hoa Kỳ vẫn nghi ngờ về một lực lượng quân sự thường trực (vì lo sợ một kẻ độc tài nào đó có thể dùng lực lượng quân sự để thao túng đất nước) cho đến khi Đệ nhị Thế chiến bùng nổ thì một quân đội hiện dịch lớn mạnh mới được chính thức thiết lập
Đạo luật An ninh Quốc gia Hoa Kỳ 1947, được thông qua sau Đệ nhị Thế chiến và trong thời gian bắt đầu xảy ra Chiến tranh lạnh, đã tạo nên khung sườn cho Quân đội Hoa Kỳ hiện đại. Đạo luật này đã sát nhập các bộ cấp nội các là Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ và Bộ Hải quân Hoa Kỳ thành Tổ chức Quân sự Quốc gia (sau đó đổi tên thành Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ vào năm 1949). Đạo luật này cũng lập ra Bộ Không quân Hoa Kỳ (đặt dưới quyền của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ) và Hội đồng An ninh Quốc gia.
Quân đội Hoa Kỳ là một trong các quân đội lớn nhất tính theo quân số, và ngang ngửa về quy mô với quân đội các nước lớn khác như Trung Quốc và Liên bang Nga[cần dẫn nguồn]. Nguồn nhân lực của Quân đội Hoa Kỳ là từ con số lớn những người tự nguyện phục vụ mặc dù chính sách quân dịch cũng từng được sử dụng nhiều lần trong quá khứ cả thời chiến cũng như thời bình nhưng nó đã không được dùng kể từ năm 1972. Tính đến năm 2010, Hoa Kỳ chi tiêu khoảng $692 tỉ đô la Mỹ mỗi năm để tài trợ cho các lực lượng quân sự của mình,[3] chiếm khoảng 42 phần trăm chi tiêu quân sự thế giới.[5] Tính chung, các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ sở hữu số lượng lớn các trang bị mạnh và tiên tiến mà giúp cho họ khả năng lớn cả về phòng thủ và tấn công.
Bên cạnh đó, quân đội Hoa Kỳ cũng vướng phải nhiều chỉ trích và cáo buộc về những tội ác do họ thực hiện trong các cuộc chiến tranh hay chiếm đóng, đi kèm với đó là những vi phạm về nhân quyền
Lịch sử Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1775, thậm chí trước khi Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ ra đời để đánh dấu việc thiết lập nên quốc gia Hoa Kỳ. Lục quân Lục địa, Hải quân Lục địa, và Thủy quân lục chiến Lục địa đã được thành lập khi kết thúc thành công Đệ nhị Quốc hội Lục địa để bảo vệ quốc gia non trẻ chống Đế quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ.
Các lực lượng vũ trang này bị giải thể vào năm 1784 sau Hiệp định Paris (1783) kết thúc chiến tranh giành độc lập. Quốc hội Hợp bang thành lập Lục quân Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6 năm 1784, tuy nhiên trong một thời gian dài Hoa Kỳ không có một quân đội thường trực sẵn sàng chiến đấu. Việc thông qua Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 đã cho Quốc hội Hoa Kỳ quyền lực "xây dựng và hỗ trợ các lực lượng lục quân", "tạo ra và duy trì một lực lượng hải quân" và "tạo ra những luật lệ cho chính phủ và qui định đối với các lực lượng hải quân và bộ binh" cũng như quyền tuyên chiến và giao cho Tổng thống Hoa Kỳ trách nhiệm làm tổng tư lệnh quân đội.
Các vụ căng thẳng gia tăng vào nhiều thời điểm khác nhau với Đế quốc Anh và Pháp qua Chiến tranh Quasi và Chiến tranh 1812 đã làm cho Hải quân Hoa Kỳ (thành lập vào ngày 13 tháng 10 năm 1775) và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (thành lập 10 tháng 11 năm 1775) phát triển nhanh chóng. Tuần duyên Hoa Kỳ có nguồn gốc từ việc thành lập Sở Quan thế Biển Hoa Kỳ (Revenue Cutter Service) năm 1790; cơ quan này được nhập với Sở Cứu cấp Nhân mạng Hoa Kỳ (United States Life-Saving Service) năm 1915 để thành lập Tuần duyên Hoa Kỳ. Không quân Hoa Kỳ được thành lập như một quân chủng độc lập vào năm 1947; nó có nguồn gốc từ việc thành lập Sư đoàn Không gian thuộc Binh chủng Truyền tin năm 1907 và là một bộ phận thuộc Lục quân Hoa Kỳ trước khi nó trở thành một quân chủng độc lập.
Hoa Kỳ có ngân sách quốc phòng lớn nhất trên thế giới.[5] Năm ngân sách 2010, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ có ngân sách căn bản là $533,8 tỉ đô la Mỹ. Bộ quốc phòng xin thêm $130,0 tỉ đô la để dùng cho các hoạt động ở hải ngoại trong cuộc Chiến tranh chống khủng bố và xin thêm $33 tỉ đô la trọn năm để chi tiêu thêm cho việc tài trợ các hoạt động ở hải ngoại.[3][6][7] Ngoài chi tiêu trực tiếp của Bộ Quốc phòng, Hoa Kỳ còn chi tiêu thêm từ $218–262 tỉ hàng năm cho các chương trình có liên quan đến quốc phòng khác như chương trình phúc lợi cho cựu chiến binh, an ninh nội địa, bảo trì vũ khí hạt nhân, và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Theo quân chủng, $225,2 tỉ dành cho Lục quân Hoa Kỳ, $171,7 tỉ cho Hải quân Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, $160,5 tỉ cho Không quân Hoa Kỳ và $106,4 tỉ chi tiêu tổng quát cho quốc phòng.[8] Theo bộ phận chức năng, $154,2 tỉ cho nhân sự, $283,3 tỉ cho hoạt động và bảo trì, $140,1 tỉ chi tiêu cho trang thiết bị vũ khí, $79,1 tỉ nghiên cứu và phát tiển, $23,9 tỉ chi tiêu cho xây cất quân sự và $3,1 tỉ chi tiêu cho gia cư.[9]
Năm ngân sách 2009, các chương trình quốc phòng chính cũng tiếp tục được tài trợ. $4,1 tỉ được dùng cho các phi cơ F-22 Raptor thế hệ mới với thêm 22 phi cơ xuất xưởng trong tài khóa 2009. $6,7 tỉ dùng cho phi cơ F-35 Lightning II vẫn đang được phát triển. 16 phi cơ sẽ được giao theo ngân sách này. Chương trình "hệ thống tác chiến tương lai" có thể tiêu tốn khoảng $3,6 tỉ dành cho phát triển nó. Tổng số $12,3 tỉ dùng cho phòng không chống tên lửa bao gồm các hệ thống phòng không "Patriot CAP", PAC-3 và SBIRS-High. $720 triệu cũng được chi tiêu để thiết lập một nơi phòng không chống tên lửa thứ ba ở châu Âu. $4,2 tỉ cũng được dùng để tiếp tục chương trình thay thế các hàng không mẫu hạm. Với sự thiết lập Bộ tư lệnh Hoa Kỳ ở châu Phi, $389 triệu được dùng để phát triển và duy trì bộ tư lệnh mới này
Home » All posts
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
- on 09:13
- No comments
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (hay Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân) (tiếng Hoa giản thể: 中国人民解放军, tiếng Hoa phồn thể: 中國人民解放軍, pinyin Zhōnggúo Rénmín Jiěfàng Jūn) là quân đội của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là quân thường trực lớn nhất thế giới và bao gồm các lực lượng: hải quân, không quân, và lực lượng hạt nhân. Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc được thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1927, là cánh tay đắc lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc và được đặt tên là Hồng Quân cho đến tháng 6 năm 1946. Huy hiệu của Giải phóng Quân Trung Quốc bao gồm một tấm huy hiệu tròn với một ngôi sao đỏ có chữ Hán "Bát Nhất" có nghĩa là ngày 1 tháng 8 (tiếng Hoa八一, Pinyin: bā yī), là ngày 1/8 năm 1927 Khởi nghĩa Nam Xương, bao quanh bởi lúa mỳ và các bánh răng.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc là một nguyên tắc cơ bản trong hệ thống chỉ huy của Quân đội Trung Quốc. Giải phóng quân Trung Quốc không chịu sự cai quản của Quốc vụ viện mà chịu sự cai quản của hai Ủy ban Quân sự Trung ương (Quân uỷ Trung ương), một cơ quan thuộc Nhà nước (Ủy ban Quân sự Trung ương Nhà nước), còn một cơ quan thì thuộc Đảng. Trên thực tế, hai cơ quan này không xung đột vì ủy viên của hai cơ quan này thường đồng nhất với nhau. Thông thường, chỉ có một vài tháng trong mỗi năm năm thì ủy viên của hai hội đồng này mới khác nhau, đó là trong giai đoạn giữa một đại hội đảng, khi uỷ viên của Quân ủy Trung ương thay đổi và kỳ họp của Quốc hội Trung Quốc, khi Quốc hội bầu ra Ủy ban Quân sự Trung ương Nhà nước. Ủy ban Quân sự Trung ương thực hiện trách nhiệm theo quyền hạn được quy định trong Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và theo Luật Quốc phòng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.[1]
Tháng 12 năm 1982, Đại hội lần thứ 5 của Quốc hội Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã sửa đổi Hiến pháp quy định rằng Ủy ban Quân sự Nhà nước Trung ương lãnh đạo toàn bộ các lực lượng vũ trang của quốc gia. Chủ tịch của Ủy ban Quân sự Nhà nước Trung ương được bầu chọn và miễn nhiệm bởi Hội nghị toàn thể của Quốc hội Trung Quốc trong khi các ủy viên thì do Ủy ban Thường vụ Quốc hội chọn ra. Tuy nhiên, Quân ủy Trung ương thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn là một cơ quan của Đảng, trực tiếp lãnh đạo quân đội và các lực lượng vũ trang khác. Trên thực tế, Quân ủy Trung ương Đảng sau khi hiệp thương với các bên, đề cử các ủy viên Ủy ban Quân sự Trung ương Nhà nước để khi những người này thông qua các thủ tục pháp lý bầu cử có thể được Quốc hội Trung Quốc bầu vào Ủy ban Quân sự Trung ương Nhà nước. Điều đó có nghĩa Quân ủy Trung ương thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy ban Quân sự Trung ương của Nhà nước là một nhóm và một tổ chức. Tuy nhiên, nhìn bề ngoài theo tổ chức thì hai Ủy ban này trực thuộc hai hệ thống khác nhau - hệ thống Đảng và hệ thống Nhà nước.
Do đó, các lực lượng vũ trang nằm dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản và cũng như thế đối với các lực lượng vũ trang của Nhà nước. Chế độ lãnh đạo chung này phản ánh xuất thân của Giải phóng quân Trung Quốc là một nhánh quân sự của Đảng và chỉ thành quân đội Nhà nước sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949.
Theo lệ thường, chủ tịch và phó chủ tịch của Ủy ban Quân sự Trung ương là các ủy viên dân sự của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhưng những người này không nhất thiết là những người đứng đầu của chính quyền dân sự. Cả Giang Trạch Dân và Đặng Tiểu Bình nắm giữ cương vị này ngay cả sau khi họ đã thôi giữ chức trong bộ máy Nhà nước và Chính phủ. Tất cả các ủy viên khác của Ủy ban Quân sự Trung ương đều sỹ quan đương nhiệm. Bộ trưởng Quốc phòng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không phải là người đứng đầu quân đội và thường chỉ là phó chủ tịch của Ủy ban Quân sự Trung ương.
Các cấp tổng cục của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bao gồm: Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Trang bị. Tổng cục Chính trị duy trì một hệ thống các chính ủy, đảm bảo sự trung thành với đảng và chính quyền dân sự. Ủy ban Quân sự Trung ương thực hiện quyền lãnh đạo quân đội ở cả Hải, Lục, Không quân và Tên lửa Đạn đạo Chiến lược (Nhị pháo, 二炮) thông qua bốn quân chủng. Ngoại trừ quân chủng Tên lửa Đạn đạo Chiến lược thuộc sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy ban Quân sự Trung ương; trong một quân khu, các đơn vị thuộc 3 quân chủng đầu phối hợp với nhau trong hiệp đồng tác chiến dưới sự chỉ huy thống nhất của quân khu đó. Các đơn vị Lục quân thuộc sự chỉ đạo của quân khu đó. Các đội Hải quân và Không quân thuộc sự lãnh đạo chung của quân khu và của quân chủng mình (ngành dọc).
Chế độ quân đội Nhà nước kế thừa và duy trì nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản đối với các lực lượng vũ trang nhân dân. Đảng và Nhà nước cùng lập nên Ủy ban Quân sự Trung ương để thực hiện sự lãnh đạo quân sự tối cao đối với các lực lượng vũ trang. Hiến pháp năm 1954 của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định rằng Chủ tịch nước thống soái các lực lượng vũ trang và quy định Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng (Hội đồng Quốc phòng là một cơ quan cố vấn, không lãnh đạo các lực lượng vũ trang). Ngày 28 tháng 9 năm 1954, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc thiết lập lại Ủy ban Quân sự Trung ương làm lãnh đạo Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc và các lực lượng vũ trang nhân dân. Kể từ đó trở đi, chế độ lãnh đạo chung giữa Đảng và Nhà nước đối với quân đội đã được thiết lập. Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo mọi công việc quân đội. Chủ tịch nước thống soái các lực lượng quân đội nhà nước và phát triển các lực lượng quân đội do Quốc vụ viện quản lý.
Để đảm bảo quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản đối với quân đội, mỗi cấp ủy đảng trong các lực lượng quân sự thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, các đơn vị và ban cấp trên xây dựng bộ máy chính uỷ và đảm bảo rằng các tổ chức cấp dưới hoạt động đồng nhất.
Kỳ hạn quân dịch[sửa]
Các binh sĩ thuộc lực lượng Thủy quân Lục chiến Trung Quốc
Về mặt lý thuyết thì tất cả công dân của CHNDTH có trách nhiệm phải đi nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên trong thực tế, việc thi hành nghĩa vụ quân sự với QĐGPNDTH lại là tự nguyện; tất cả công dân 18 tuổi đều phải đăng kí với nhà cầm quyền, tương tự như Hệ thống tuyển quân của Hoa Kỳ. Trừ một ngoại lệ dành cho các các tân sinh viên đại học (cả nam và nữ), là phải tham gia đợt tập huấn quân sự (thường kéo dài một tuần hoặc hơn) trước khi bắt đầu học đại học hoặc sau đó một năm. Thời hạn phục vụ trong lục quân là 36 tháng, trong không quân và hải quân là 48 tháng, trong lực lượng tên lửa chiến lược không ấn định thời hạn.[2]
Lịch sử tác chiến[sửa]
Các sự kiện và các cuộc chiến lớn[sửa]
1931 đến 1945: Chiến tranh thế giới thứ 2 chống Đế quốc Nhật
1945 đến 1950: Nội chiến Trung Quốc chống lại các lực lượng của Quốc Dân Đảng; thiết lập quyền kiểm soát ở Tây Tạng
1950 đến 1953: Chiến tranh Triều Tiên (Dưới danh xưng chính thức là Quân tình nguyện Nhân dân Trung Quốc, dù đội quân này là gồm quân chính quy của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc hay còn biết đến với tên gọi Chí nguyện quân.)
Tháng 8 năm 1954 đến tháng 5 năm 1958: Khủng hoảng Eo biển Đài Loan tại Quemoy (đảo Kim Môn) và Matsu (đảo Mã Tổ).
Tháng 10 năm 1962 đến tháng 11 năm 1962: Chiến tranh Trung-Ấn
1966 đến 1976: Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản
1967: Giao tranh biên giới với Ấn Độ
1969 đến 1978: Xung đột biên giới Trung-Xô
1974: Hải chiến Hoàng Sa 1974
1979: Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
1988: Sự kiện Thiên An Môn
1981 - 1991: Giao tranh biên giới với Việt Nam
Quân số và biên chế[4][sửa]
- Tổng quân số lực lượng vũ trang chính quy: 2.300.000 người
- Tổng quân số dự bị động viên cục bộ: 1.000.000 người
- Tổng quân số dự bị động viên toàn quốc: 198.400.000 người
- Các đơn vị bán vũ trang:
+ Cảnh sát vũ trang: 110.000 người
+ Dân quân, dân cảnh: 3.000.000 người
+ Các đơn vị đặc biệt thuộc Bộ An ninh: 50.000 người
Lục quân[sửa]
Tổng quân số: năm 2000 là 1.8; năm 2008 còn 1.5 triệu người; năm 2013 còn 850.000
Biên chế tổ chức[5]
Các đợn vị cấp quân đoàn : có 21 quân đoàn quân chính quy gồm:
- 44 sư đoàn bộ binh
- 10 sư đoàn xe tăng
- 5 sư đoàn pháo binh
Các đơn vị cấp sư đoàn, lữ đoàn độc lập
- 13 lữ đoàn xe tăng
- 15 lữ đoàn bộ binh
- 23 lữ đoàn pháo binh
- 3 sư đoàn đổ bộ đường không
- 5 sư đoàn bộ binh cơ giới hóa
- 1 sư đoàn pháo binh đặc biệt
- 4 lữ đoàn pháo + tên lửa phòng không lục quân
- 7 trung đoàn máy bay trực thăng
China military regions.jpg
Các đơn vị thuộc bảy quân khu:
Quân khu Thẩm Dương (Shenyang)
Quân khu Bắc Kinh (Beijing)
Quân khu Nam Kinh (Nanjing)
Quân khu Tế Nam (Jinan)
Quân khu Thành Đô (Chengdu)
Quân khu Quảng Châu (Guangzhou)
Quân khu Lan Châu (Lanzhou).
- 12 sư đoàn bộ binh
- 1 sư đoàn bộ binh sơn cước
- 4 lữ đoàn bộ binh độc lập
- 87 tiểu đoàn bộ binh độc lập
- 50 trung đoàn công binh
- 30 trung đoàn thông tin liên lạc
Khung các đơn vị dự bị:
- 50 khung sư đoàn bộ binh, pháo binh, phòng không
- 80 khung trung đoàn bộ binh, pháo binh độc lập
Trang bị vũ khí của bộ binh[6]
- Xe tăng: Tổng số 9.800 chiếc; trong đó có 5.000 xe tăng T54/59, 2.400 xe tăng lội nước PT76, 1.200 xe tăng T62/63, 800 xe tăng chủ lực T72, 200 xe tăng chủ lực ZYZ98/99.
- Xe bọc thép: 5.500 chiếc gồm các loại xe xích BMP-1, BMP-3, WN-3; bánh hơi: Honghe-70 (mẫu BTR-70), Honghe-80 (mẫu BTR-80), WZ-551
- Pháo lớn: hơn 14.500 khẩu, gồm các loại: lựu pháo 85 mm, lựu pháo 105 mm, lựu pháo 155 mm, pháo nòng dài 122 mm, pháo nòng dài 130 mm, pháo tự hành 152 mm đặt trên bệ xe tăng T54/59, pháo chống tăng 57 mm và 100 mm.
- Súng cối: hơn 100.000 khẩu các cỡ nòng: 60 mm, 82 mm, 120 mm và 160 mm.
- Hoả tiễn đất đối đất bắn loạt: 2.300 giàn các loại BM12-13, BM-27, BM-40
- Súng và tên lửa chống tăng: RPG-2, RPG-7B, AT-3 Sagger, Jevelin, Gustav...
- Súng phòng không bộ binh: 15.000 cao xạ các loại 24 mm, 37 mm, 57 mm, 100 mm; 180 bộ khí tài + bệ phóng tên lửa Hongqi-2 (SAM-2); 15 bộ khí tài + bệ phóng tên lửa 9K330 (Tor-M1), 100 bộ khí tài + bệ phóng Hongqi-3 (SAM-3).
- Trực thăng : 243 chiếc các loại Mi-8 (trực thăng đa chức năng), Mi-17(trực thăng vận tải) và Mi-24 (trực thăng chiến đấu)
- Vũ khí hạng nhẹ của bộ binh: Đại liên Trường An (mẫu đại liên Goriunov), đại liên SK-75; trung liên RPD, RPK; các loại súng trường chiến đâu , Type56sao chép AK-47 AK-47(Kalasnicov), AK-74(Nikonov), M-4 sao chép sử dụng hạn chế ở một số lực lượng nhất định QBZ-95, K63, K89, K95; các loại súng trường SKS, K84.v.v...
Không quân[sửa]
Biên chế, tổ chức
- Tổng quân số: 398.000 người
- Tổ chức:
+ 195 phi đội tiêm kích và tiên kích - bom
+ 120 phi đội cường kích
+ 42 phi đội ném bom
+ 15 phi đội trinh sát
+ 50 phi đội vận tải, tiếp dầu
+ 24 phi đội trực thăng
+ 8 trung đoàn cao xạ phòng không
+ 2 Trung đoàn tên lửa Hongqi-2
+ 2 trung đoàn tên lửa S-300RMU
+ 8 tiểu đoàn tên lửa SA-20RMU2
Vũ khí, khí tài
- Máy bay ném bom:
+ 120 chiếc H-6 (TU-16)
+ 120 chiếc H-7 (IL-28)
+ 400 chiếc Q-5 (TU-16)
- Máy bay tiêm kích và tiêm kích - bom
+ 150 chiếc J-5 (MIG-17)
+ 1.800 chiếc J-6 (MIG 19)
+ 500 chiếc J-7 (MIG 21)
+ 180 chiếc J-8
+ 120 chiếc J-10 (FT-2000)
+ 24 chiếc J-11 (SU-27)
+ 48 chiếc SU-27
+ 23 chiếc SU-30MK
- Máy bay trinh sát:
+ 18 chiếc BA-1E
+ 12 chiếc KJ-200
+ 8 chiếc KJ-2000
- Máy bay vận tải quân sự:
+ 44 chiếc vận tải IL-76
+ 4 chiếc tiếp dầu trên không IL-78
+ 10 chiếc vận tải IL-18
+ 300 chiếc Y-5 (AN-2)
+ 56 chiếc Y-7 (AN-24)
+ 24 chiếc Y-8 (AN-12)
+ 15 chiếc Y-11
+ 2 chiếc Y-12
- Máy bay trực thăng:
+ 6 chiếc AS-332
+ 4 chiếc BELL-214
+ 80 chiếc Mi-8
+ 24 chiếc Mi-17
+ 25 chiếc Z-5 (Mi-4)
+ 18 chiếc Mi-24
+ 50 chiếc Z-9 (SA-365N)
- Máy bay huấn luyện:
+ Hơn 150 chiếc các loại YAK-51, L-39 và YAK-18
Hải quân[sửa]
Bài chi tiết: Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc
- Tổng quân số: 235.000 người; trong đó
+ Hải quân hạm tàu: 230.000 người
+ Không quân của hải quân: 25.000 người, gồm 24 trung đoàn
+ Hải quân đánh bộ: 9.000 người gồm 2 lữ đoàn (mỗi lữ đoàn gồm 3 tiểu đoàn TQLC, 1 tiểu đoàn cơ giới, 1 tiểu đoàn xe lội nước, 1 tiẻu đoàn pháo binh)
+ Hải quân tuần duyên: 28.000 người gồm 28 trung đoàn chia làm 28 vùng phòng thủ.
Các căn cứ, quân cảng chính
Liễu Sơn, Hồ Lô Đảo, Thanh Đảo (căn cứ chỉ huy hạm đội Bắc Hải), Thượng Hải, Ninh Ba (căn cứ chỉ huy hạm đội Đông Hải), Chu Sơn, Vân Châu, Tây Dân, Quảng Châu, Trạm Giang (căn cứ chỉ huy hạm đội Nam Hải), Tam Á (căn cứ tàu ngầm).
Vũ khi, trang bị
- Tàu ngầm hạt nhân:
+ 3 tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa hạt nhân tầm xa: K-092/Xia (lớp Hạ), K-93/Shang (lớp Thương), K-94/Jin (lớp Tấn)
+ 5 tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa hạt nhân tầm trung K-91/Han (lớp Hán).
+ 13 tàu ngầm diezel-điện K-30 lớp ROMEO
+ 18 tàu ngầm diezel-điện K-35 lớp Ming
+ 17 tàu ngầm diezen-điện K-51 lớp Kilo
+ 15 tàu ngầm diezel-điện lớp Yuan (Nguyên)
- Tàu tuần duơng, tàu khu trục, tàu trợ chiến
+ 3 soái hạm K-052C lớp Luyang (Lữ Dương)
+ 2 tuần dương hạm K-51C lớp Luzhou (Lữ Châu)
+ 43 tàu khu trục tên lửa lớp K-22 lớp Houbei (Hồng Bại, 紅稗)
+ 8 tàu khu trục tên lửa lớp K-054A/Meenshan Mẫn Sơn)và K-054B/Jiangkai (theo mẫu tàu Sovremenny của Nga)
+ 3 tàu khu trục tàng hình K-021 lớp Houku
+ 7 tàu khu trục K-18 lớp Luda (Lữ Đại).
+ 27 tàu với mìn K-010 lớp T-43.
+ 234 tàu tuần duyên kiểu Hải tuần
+ 28 tàu phóng lôi các loại.
+ 6 tàu chở dầu, 48 tàu vận tải (huy động từ tàu dân sự khi có chiến sự)
- Tàu đổ bộ:
+ 36 tàu đổ bộ bộ binh + xe tăng hạng nặng kiểu K-072-II và K072-III lớp Yuting
+ 32 tàu đổ bộ bộ binh + xe tăng hạng trung kiểu K-071
+ 9 tàu đổ bộ bộ binh kiểu LCU
+ 44 cano hạng trung
+ 9 tàu đổ bộ chạy bằng đệm khí.
- Máy bay của hải quân
+ 180 chiếc tiêm kích - bom J-8, J-10
+ 36 chiếc Su-27UKN
+ 40 trực thăng Ka-25
+ 360 trực thăng Mi-8, Mi-17
+ 220 trực thăng Z-9C
- Phương tiện chiến đấu trên bộ của hải quân
+ Xe tăng T59, T63
+ Xe thiết giáp WZ-551
+ Pháo lựu 122 mm
+ Pháo tầm xa 130 mm
+ Hỏa tiễn phóng loạt HM-12
- Các loại tên lửa
+ 120 tên lửa đất đối hạm YJ-62 và YJ-62C,
+ Tên lửa hạm đối hạm các loại: HHQ-7 (Con tằm), YJ-83.
+ Tên lửa hạm đối không SA-N-20
+ Tên lửa đạn đạo hạm đối đất Julang-1,
+ Tên lửa hành trình SS-N-22/SUNBURN và SS-N-27/SIZZLER phóng từ tàu ngầm.
Hiện nay, Trung Quốc vừa hoàn thành việc thử tên lửa hạm đối đất mang đầu đạn hạt nhân Julang-2 (JL-2 trang bị cho các tàu ngầm hạt nhân chiến lược và tàu ngầm lớp Kilo; đồng thời, trang bị loại tên lửa YJ-1 (Ying ji-1) (âm Hán Việt là Ưng Kích 1) cho các tàu ngầm hạt nhân chiến lược.
Lực lượng tên lửa chiến lược[sửa]
Lực lượng tên lửa chiến lược (SMF) của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) được Trung Quốc gọi là lực lượng pháo binh thứ hai (Đệ nhị pháo binh bộ đội) đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương Trung Quốc. Bộ Quốc phòng CHND Trung Hoa có trách nhiệm chỉ huy, quản lý các phương tiện phóng, đầu đạn và các phương tiện, vật chất, kỹ thuật bảo đảm khác.
Biên chế, tổ chức
Toàn bộ SMF của PLA có biên chế 11.000 người (không kể lực lượng khoa học kỹ thuật dân sự phục vụ có thời hạn). Tổ chức SMF của PLA được phân thành 4 cấp:
- Bộ Tư lệnh;
- Căn cứ khu vực: gồm 4 vùng tác chiến, 2 vùng bán quân sự và 1 vùng huấn luyện mang các mật danh Cxx:
+ Căn cứ C51 ở vùng Đông Bắc: Sở chỉ huy đặt tại Cáp Nhĩ Tân; lực lượng tác chiến của căn cứ này là đơn vị 80301 (gồm 3 lữ đoàn) đóng lại Liêu Ninh, một trong các lữ đoàn này có khả năng cơ động khắp vùng Mãn Châu bằng đường sắt và đường bộ.
+ Căn cứ C52 ở Hoa Trung: Sở chỉ huy đặt tại [Tây An?], thuộc tỉnh An Huy; lực lượng tác chiến của căn cứ này là đơn vị 80302 (gồm 3 lữ đoàn) đóng lại Hoàng Sơn, một trong các lữ đoàn này có khả năng cơ động khắp vùng Bắc sông Trường Giang bằng đường sắt và đường bộ.
+ Căn cứ C53 ở Thanh Hải: Sở chỉ huy đặt tại Lan Châu, lực lượng tác chiến của căn cứ này là đơn vị 80306 (gồm 3 lữ đoàn) đóng lại Thiểm Tây - Ninh Hạ, một trong các lữ đoàn này có khả năng cơ động khắp vùng Thanh Hải - Tân Cương bằng đường bộ.
+ Căn cứ C54 ở Cao nguyên Vân - Quý: Sở chỉ huy chính đặt tại Côn Minh, thuộc tỉnh Vân Nam, lực lượng tác chiến của căn cứ này là đơn vị 80303 (gồm 3 lữ đoàn) đóng lại Liêu Ninh, một trong các lữ đoàn này có khả năng cơ động khắp vùng Vân - Quý và Tứ Xuyên bằng đường bộ.
+ Căn cứ C55 ở vùng Nội Mông; được chuyển thành căn cứ bán quân sự từ năm 1992.
+ Căn cứ C56 ở tỉnh ven biển Phúc Kiến; được chuyển thàng căn cứ bán quân sự từ năm 2008 (sau khi Mã Anh Cửu, người của Quốc dân Đảng lên cầm quyền ở Đài Loan)
+ Vùng tác chiến thử nghiệm, nơi huấn luyện, căn cứ hàng không vũ trụ đồng thời là nơi dự trữ đầu đạn C22 tại khu vực Bảo Kê (Baoji) tỉnh Thiểm Tây.
- Lữ đoàn tác chiến (gồm 12 lữ đoàn tác chiến); mỗi căn cứ quân sự có 2 lữ đoàn có bệ phóng cố định và 1 lữ đoàn có bệ phóng di động.
- Tiểu đoàn tác chiến, (mỗi lữ đoàn có 2 tiểu đoàn tác chiến và 1 tiểu đoàn kỹ thuật bảo đảm);
Trang bị vũ khí, khí tài
- 20 tên lửa đạn đạo Dongfeng-3 (CSS-2) IRBMs (Đông Phong-3) có cự ly tác xạ tối đa 4.000 km; ( tương lai sẽ thay bằng Dongfeng-21 )
- 20 tên lửa đạn đạo Dongfeng-4 (CSS-3) IRBMs có cự ly tác xạ từ 5.500 - 7.000 km; ( tương lai sẽ thay bằng Dongfeng-31 )
- 20 tên lửa đạn đạo Dongfeng-5 (CSS-4) IRBMs có cự ly tác xạ tối đa 13.000 km;
- 80 tên lửa đạn đạo Dongfeng-21 (CSS-5) MRBMs có cự ly tác xạ 1.500 km;
(Các loại tên lửa này đều mang đầu đạn đơn)
- 300 tên lửa đạn đạo Dongfeng-15 (CSS-6) SRBMs có cự ly tác xạ tối đa 600 km;
- 600 tên lửa đạn đạo Dongfeng-11 (CSS-7)SRBMs có cự ly tác xạ tối đa 300 km;
- 20 tên lửa đạn đạo Dongfeng-21C (CSS-5 Mod-3) MRBMs có cự ly tác xạ 4.500 km;
- 30 tên lửa đạn đạo Dongfeng-31 (CSS-9) và Dongfeng 31-A có cụ ly tác xạ từ 8000 km - 12000 km.
- 45 tên lửa hành trình phóng từ mặt đất DH-10
(Các loại tên lửa này đều có thể mang từ 5 đến 7 đầu đạn, tiến đánh cùng lúc từ 5 đến 7 mục tiêu)
Hiện nay, Trung Quốc đã nghiên cứu chế tạo và thử thành công loại tên lửa Dongfeng-32 (DF-32) có tầm bắn xa đến 11.500 km, có khả năng vượt qua hệ thống tên lửa đánh chặn SMD của Mỹ.
Một số vấn đề mới về vũ khí bộ binh
Thời kỳ đỉnh điểm khoảng những năm 1980-1990, PLA có khoảng 10.000 xe tăng, giảm dần còn khoảng 6.000-8.000 xe tăng trong vòng vài năm qua. Số xe tăng Trung Quốc sản xuất theo mẫu xe tăng Liên Xô T-54A (Type 59 and Type 69) chiếm đến hơn hai phần ba tổng số xe tăng. Đồng thời với việc cho nghỉ hưu các xe tăng loại cũ Type-59/69, thay thế bằng thế hệ hai Type 88 và Type 96, PLA cũng nâng cấp số xe tăng Type-59/69 còn lại với những công nghệ mới, bao gồm hệ thống liên lạc và kiểm soát hỏa lực cải tiến, thiết bị nhìn đêm, giáp ERA, động cơ được nâng cấp, và hỏa tiễn chống tăng bắn bằng pháo chính, khiến cho chúng có thể tiếp tục phục vụ như các giàn hỏa lực cơ động. Loại xe tăng mới nhất là Type 99, bắt đầu phục vụ từ năm 2001.
PLA cũng có chừng 2.000 xe tăng hạng nhẹ, kể cả loại Type-62 hạng nhẹ và xe tăng lội nước Type-63, bắt đầu đưa vào sản xuất từ những năm 1960s. Loại Type-63 được nâng cấp đặc biệt với hỏa lực được máy tính hóa, trang bị tên lửa chống tăng (ATGM), thiết bị tác chiến đêm, hệ thống định vị bằng vệ tinh, và nâng cấp mã lực.
Vũ khí hóa học
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không phải là một thành viên của Nhóm Australia, một tổ chức được thành lập năm 1985 để theo dõi sự phát triển nhanh chóng của việc sử dụng hóa chất vào mục đích kép ( dùng trong dân sự và quân sự ) và để kết hợp việc quản lý mặt hàng hóa chất xuất khẩu cũng như các thiết bị được sử dụng trong ngành hóa học. Vào tháng tư 1997, PRC thông qua Quy ước vũ khí Hóa học (CWC) và trong tháng chín năm 1997, Trung Quốc đã công bố một chỉ thị quản lý hàng xuất khẩu vũ khí hóa học mới.
Hệ thống cơ bản không gian
PLA đang triển khai một số chương trình không gian tạo cơ sở cho việc sử dụng hệ thống này vào mục đích quân sự bao gồm:
Các vệ tinh thăm dò khí tượng loại ZiYan, xác định ( mục tiêu ) quân sự loại JianBing
Những vệ tinh khẩu độ tổng hợp (SAR) như loại JianBing-5
Mạng vệ tinh dẫn đường loại BeiDou (Bắc Đẩu-1 và Bắc Đẩu-2)
Đảm bảo an toàn cho những vệ tinh thông tin loại FENGHUO-1.[8]
Các vệ tinh do thám quân sự kiểu Yaogan-1, 2, 3, 4, 5, 6; Haiyang-1B; CBER-2 và CBR-2B.
Vào ngày 11 tháng Giêng, 2007 tại trung tâm vũ trụ Tây Xương, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc tiến hành thử nghiệm thành công một tên lửa chống vệ tinh.[9]
Chuyến bay vào không gian có người[sửa]
Quân đội Nhân dân Trung Quốc chịu trách nhiệm đối với Chương trình Bay vào không gian có người lái của Trung Quốc. Đến này, tất cả các taikonautđã được tuyển chọn trong số Không quân Quân đội Nhân dân Trung Quốc. Trung Quốc đã trở thành quốc gia thứ 3 duy nhất đưa người vào vũ trụ bằng các trang thiết bị do mình chế tạo với chuyến bay của trung tá Dương Lợi Vĩ trên tàu vũ trụ Thần Châu 5 vào ngày 15 tháng 10 năm 2003. Sau chuyến bay thành công, Dương Lợi Vĩ được phong cấp hàm đại tá.
Ngân sách quốc phòng Trung Quốc
Theo Trung Quốc công bố chính thức thì ngân sách quốc phòng của nước này trong một số năm gần đây như sau: năm 2000 là 13 tỷ USD, năm 2007 là 52 tỷ USD, năm 2008 là 61 tỷ USD, năm 2009 là 70,27 tỷ USD, năm 2013 là hơn 100 tỷ USD. Tuy nhiên, Mỹ, Nhật Bản và một số nước phương Tây cho rằng những con số đó rất thấp so với thực tế. Theo phía Mỹ, ngân sách quốc phòng Trung Quốc năm 2008 có thể đạt đến 122 tỷ USD vì chỉ riêng việc trang bị động cơ mới cho toàn bộ 273 chiếc SU-27, SU-30MK và J-11 (loại máy bay sao chép từ SU-27) đã tiêu tốn không dưới 2 tỷ USD. Phía Trung Quốc cho rằng, nguy cơ quân sự từ phía họ đã bị phương Tây thổi phồng.
Kế hoạch thành lập hạm đội xuyên đại duơng
Theo nguồn tin từ các chuyên gia quân sự Nga (được Interfax-ABN trích dẫn), Hải quân Trung Quốc đang có kế hoạch thành lập 2 hạm đội xuyên đại dương hùng mạnh trước năm 2050 với tên gọi: Kế hoạch Con rồng đỏ (Xích long). Hạm đội này có thể triển khai tác chiến ở bất kỳ khu vực nào trên Thái Bình Dương. Trung Quốc cũng có kế hoạch hiện đại hóa các "hạm đội nước vàng" (hạm đội ven bờ) của họ thành "hạm đội nước sâu" (hạm đội biển khơi) trước năm 2020 với 2 nhiệm vụ "Mạch đảo" nhiệm vụ kiểm soát đến các tuyến chiến lược:
- Mạch đảo thứ nhất: phía Bắc đến Vladivostok (Nga), Hokkaido (bắc Nhật Bản), Nampo (thuộc Hàn Quốc), Ryukiu (Trung Quốc gọi là Lưu Câu Kiều, quần đảo Điếu Ngư Đài (Trung Quốc đang tranh chấp với Nhật Bản)Quần đảo Nansi (Nam Sa, tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam), quần đảo Philippines; các vùng biển Hoàng hải, Đông Hải (tức biển Hoa Đông), Nam Hải (tức Biển Đông) đến eo biển Malacca (Singapor) và quần đảo Indonesia. Trọng điểm của giai đoạn "Mạch đảo thứ nhất" là Biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Nam Trung Hoa)
- Mạch đảo thứ hai: phía Bắc đến quần đảo Aleutians (Hoa Kỳ), qua các vùng đảo Kuril (quần đảo đang có sự tranh chấp Nga-Nhật), Mariana, Carolina (thuộc Mỹ) và New Guinea (Bắc Australia). Trọng điểm của giao đoạn "Mạch đảo thứ hai"" là khống chế Hawai và bờ Tây nước Mỹ.
Kế hoạch này còn bao gồm các hoạt động bảo vệ lợi ích của Trung Quốc (bằng sức mạnh) đối với các ngồn tài nguyên thiên nhiên trên biền, trong lòng biển và dưới đáy đại duơng mà Trung Quốc cho là thuộc chủ quyền của họ cũng như việc đảm bảo an ninh của ngành vận tải đường biển Trung Quốc.
Cùng với việc hiện đại hóa các hạm tàu, Trung Quốc cũng chú trọng phát triển không quân của hải quân và lực lượng lính thủy đánh bộ. Trung Quốc đang cố gắng tự đóng tàu sân bay trước năm 2020 (do việc họ không tranh được với Ấn Độ hợp đồng mua tàu sân bay Admiral Goskov của Nga); nâng cấp, cải tiến các máy bay SU-30MK và J-10 thành máy bay dùng cho hàng không mẫu hạm; phát triển chế tạo các loại tàu đổ bộ cỡ lớn hoặc mua các tàu này từ Đông Âu (UKRAINA đã nhận đơn đặt hàng đóng cho Trung Quốc 12 tàu loại này).
Dự kiến các hạm đội xuyên đại dương của Trung Quốc sẽ được biên chế, trang bị 1 tàu sân bay có khả năng đảm bảo hoạt động cho 45 đến 50 máy bay chiến đấu của hải quân, 1 tàu ngầm nguyên tử chiến lược, 4 tàu ngầm nguyên tử đa chức năng, 12 tàu ngầm diezel-điện, 29 tàu tuần dương, 49 tàu khu trục, 234 tàu tuần tiễu trang bị tên lửa, 15 tàu phóng lôi, 48 tàu quét mìn, 120 tàu, cano, xuồng đổ bộ các loại.
Cương lĩnh quân sự của Trung Quốc thời đại mới
Về đổi mới và hiện đại hóa quân đội[sửa]
Trọng tâm là cơ cấu lại các lực lượng theo hướng giảm biên chế quân số, tăng cường chất luợng, triệt để áp dụng các biện pháp cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa các loại vũ khí thông thường; cải tiến cơ cấu hành chính quân sự, biên chế tổ chức và bố trí, phân phối binh lực hợp lý. Tập trung hoàn thiện khả năng đánh thắng các cuộc chiến tranh cục bộ trong điều kiện ứng dụng công nghệ cao và vũ khí thông minh.
Chương trình hành động
Đến năm 2020, đạt mục tiêu phát triển bộ máy quân sự có trình độ tiên tiến, có khả năng tiến hành các hoạt động tác chiến có quy mô châu lục, cách biên giới quốc gia (của Trung Quốc) từ 3.000 đến 10.000 km. Kết hợp tự lực phát triển hệ thống vũ khí, trang bị với việc mua sắm từ nước ngoài; chú trọng phát triển hiện đại hóa các hệ thống vũ khí phòng không, vũ khí chống tàu ngầm và tàu nổi; phát triển hệ thống vũ khí chống vệ tinh, phóng thêm các loại vệ tinh phục vụ chỉ huy quân sự, định vị, dẫn đường và vệ tinh do thám tín hiệu, do thám hình ảnh; phát triển lực lượng tên lửa đạn đạo mang nhiều đầu đạn hạt nhân và tên lửa, bom hạt nhân chiến thuật. Phát triển lực lượng kinh tế - quân sự, lấy lực lượng tài chính-ngân hàng quân sự để có nguồn thu lớn bù đắp cho chi phí quân sự ngay cả trong thời gian đang có chiến tranh cục bộ.
Chiến lược hành động[cần dẫn nguồn
Phương sách xuyên suốt áp dụng cho cả thời bình và thời chiến là phản công quyết liệt, không bị hạn chế bởi không gian và thời gian. Triệt để tận dụng các cơ hội và điều kiện thuận lợi để tấn công, khi tấn công thì không đặt vấn đề biên giới quốc gia và vùng lãnh thổ. Tập trung hỏa lực vào những điểm trọng yếu của đối phương; triển khai cùng lúc các hoạt động phòng thủ và tấn công, không chờ phòng thủ xong mới tấn công. Thực hành tấn công trả đũa ngay sau khi bị tấn công với với thời hạn nhanh nhất. Nhất thiết chỉ sử dụng lực lượng của chính mình để tấn công đối phương.
Phối hợp chặt chẽ hoạt động quân sự với hoạt động ngoại giao để chủ động chấm dứt chiến sự trên thế mạnh, thế có lợi.
Phối hợp các hoạt động quân sự với hoat động kinh tế quân đội. Triệt để lợi dụng sự rối loạn trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế do việc chủ động phát động chiến sự gây ra để tổ chức các hoạt động buôn bán, môi giới tài chính, ngân hàng, thu lợi nhuận cho quân đội.
Chiến lược phát triển hải quân
Lực lượng Tự vệ Nhật Bản
- on 09:03
- No comments
Lịch sử quân sự Nhật Bản mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới khi phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Rồi lên đến cực điểm trong hai cuộc thế chiến và cuối cùng kết thúc với sự kiện Nhật Bản đầu hàng quân Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Kể từ đó, hiến pháp Nhật Bản đã ngăn cấm việc sử dụng lực lượng quân sự để tiến hành chiến tranh với bất kỳ quốc gia nào khác.
Ngoại trừ tính từ lúc quân Đồng Minh chiếm đóng Nhật Bản sau Thế chiến II, theo các tài liệu lịch sử ghi nhận thì đảo quốc Nhật Bản chưa bao giờ bị một thế lực ngoại xâm nào xâm chiếm thành công hoàn toàn
Thời kỳ Hậu chiến[sửa]
Sau một thời gian dài dưới sự chiếm đóng của Mỹ (1945-1952), Nhật Bản giành lại độc lập. Tuy nhiên theo Điều chín của Hiến pháp Nhật Bản, Nhật Bản bị cấm xây dựng quân đội thường trực hoặc tiến hành chiến tranh với bất cứ mục đích gì.
Mặc dù hiến pháp Nhật Bản nói rằng "lực lượng hải, lục, không quân, cũng như tiềm năng chiến tranh khác, sẽ không bao giờ được duy trì," Tự vệ đội (自衛隊), hay Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản được thành lập ngay sau khi Mỹ kết thúc chiếm đóng Nhật Bản. Tự vệ đội là một trong những lực lượng vũ trang được trang bị công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới và chi phí quân sự của Nhật Bản đứng vào hàng cao nhất thứ bảy trên thế giới. Mặc dù Hiệp ước Hợp tác và An ninh lẫn nhau, ký kết vào năm 1960, cho phép sự hiện diện liên tục của các căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật Bản, hầu hết trong số đó đóng trên đảo Okinawa, mặc dù không có thỏa thuận chính thức nào cả buộc Nhật Bản phải chính thức dựa vào Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc, hoặc bất kỳ thế lực nào khác để bảo vệ đất nước mình.
Hậu quả từ sự Chiếm đóng của Mỹ, cùng những nỗ lực của chính quyền Nhật Bản, đặc biệt là sự thúc đẩy của Hoa Kỳ, để sửa đổi Hiến pháp và tái vũ trang. Điều này đã được ngăn chặn bằng sự chống đối lại hành động này của một số nước từng bị quân đội Nhật xâm chiếm, và những tổ chức, đoàn thể chống chiến tranh nói chung, cùng với thái độ và những yếu tố quan trọng của chương trình nghị sự ttrong nội các chính phủ Nhật Bản. Năm 1967, Thủ tướng Eisaku Sato đưa ra ba nguyên tắc phi hạt nhân mà theo đó Nhật Bản sẽ chống lại việc sản xuất, hoặc sở hữu vũ khí hạt nhân. ý tưởng tương tự cũng được thể hiện nhiều năm sau đó chống lại việc sản xuất và xuất khẩu vũ khí quy ước. Nghị viện Nhật Bản hiện đang cân nhắc việc sửa đổi Hiến pháp sẽ bãi bỏ Điều Chín, và cho phép Nhật Bản một lần nữa có khả năng tái vũ trang quân sự.
Trong lúc này, Nhật Bản đã triển khai Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản để hỗ trợ trong một số nhiệm vụ không chiến đấu, đặc biệt là những người có liên quan đến viện trợ nhân đạo, chẳng hạn như giúp đỡ các nạn nhân của trận động đất Kobe năm 1995, cung cấp hỗ trợ hành chính cho Lực lượng Lâm thời Liên Hiệp Quốc ở Liban ( UNIFIL) Tiểu đoàn Na Uy (NORBATT) trong những năm 1990, và giúp tái thiết lại Iraq.
Một số quan chức Nhật Bản mong muốn có quân đội riêng của họ vì sợ sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc và sự thù địch của Bắc Triều Tiên. Họ tuyên bố rằng Hoa Kỳ đã không đủ sức mạnh và thẩm quyền giải quyết các vấn đề này, và do đó Nhật Bản phải tự xây dựng lực lượng riêng để bảo vệ chính mình trước những hiểm họa xung quanh.
Năm 2004, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã công bố một kế hoạch mở rộng số ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, và Nhật Bản tìm cách đạt được một trong những chỗ ngồ nàyi. bất chấp sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị của Nhật Bản, một số cuộc tranh luận có hay không về một đất nước không có quân đội thường trực có thể được coi là một "cường quốc thế giới" mà cần phải có một ghế thường trực trong Hội đồng. tranh chấp lãnh thổ gần đây với các nước láng giềng như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, và Nga ở các quần đảo như Senkaku, Liancourt Rocks, và quần đảo Kuril, cũng như lời buộc tội về sự minh oan của Nhật Bản về vụ sách giáo khoa lịch sử gây tranh cãi khác nhau cũng làm quá trình này ngày càng thêm phức tạp.
Lực lượng Vũ trang Ấn Độ
- on 08:53
- No comments
Lực lượng Vũ trang Ấn Độ là các lực lượng vũ trang đáp ứng cho nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng và an ninh trên lãnh thổ Ấn Độ. Tổng thống của Ấn Độ là lãnh đạo tối cao (tổng tư lệnh) của các lực lượng vũ trang. Lực lượng Vũ trang Ấn Độ, gồm Lục quân Ấn Độ, Hải quân Ấn Độ và Không quân Ấn Độ, được đặt dưới sự chỉ huy, điều hành trực tiếp của Bộ Quốc phòng. Lực lượng phục vụ, hỗ trợ gồm có Lực lượng Bảo vệ Biên giới Ấn Độ, Lực lượng Bán vũ trang Ấn Độ và Bộ chỉ huy các Lực lượng Chiến lược.
Tất cả các quân nhân phục vụ trong quân đội của Ấn Độ là những người tình nguyện, mặc dù chính phủ được quyền thực thi chế độ tòng quân bắt buộc khi thấy cần thiết cho việc bảo vệ Ấn Độ. Tuy nhiên, Ấn Độ chưa bao giờ thực thi chế độ tòng quân cưỡng bức, ngay cả trong các cuộc chiến tranh lớn trước đây. Lực lượng Vũ trang của Ấn Độ vẫn duy trì hầu hết cách thức tổ chức trong quân đội đã đước thiết lập bởi quân Anh, song lực lượng vũ trang đã thể hiện được vai trò chiến lược, quan trọng của Ấn Độ, có năng lực và sức mạnh ngày càng tăng sau khi Ấn Độ trở thành quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân công khai, hợp pháp.
Mặc dù Ấn Độ có lịch sử quân sự lâu đời, tuy nhiên lực lượng vũ trang hiện đại đã được xây dựng trong thế kỷ 19 thời kỳ Anh đang cai trị Ấn Độ. Lục quân Ấn Độ, là lực lượng vũ trang đã được biết đến và tham gia chiến đấu ở cả hai cuộc Đại chiến thế giới. Trong Đệ nhị Thế chiến, quân của Ấn Độ đã đóng vai trò chính trong việc cản trở, hạn chế sự phát triển của Đế quốc Nhật và cũng tham gia chiến đấu trong một số trận trên mặt trận theo trục bắc Phi và Ý.
Lực lượng vũ trang Ấn Độ đã có nhiều thành công trong quân đội Anh - Ấn, sau đó là việc giành lập cho Ấn Độ năm 1947. Lực lượng vũ trang Ấn Độ đã tham gia chiến đấu trong cả 3 cuộc chiến tranh chống lại Pakistan và cuộc chiến tranh chống lại Trung Quốc. Lực lượng vũ trang Ấn Độ cũng tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc và hiện nay đứng thứ 2 trong các nước có quân tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình. Lực lượng vũ trang Ấn Độ có số quân đông thứ 3 trên thế giới.
Sở chỉ huy của Lực lượng vũ trang Ấn Độ đặt tại thủ đô New Delhi của Ấn Độ. Các lực lượng vũ trang của Ấn Độ được tách ra thành các phần khác nhau dựa theo vùng miền hoạt động. Lục quân Ấn Độ, về mặt quản lý hành chính, được chia thành 7 bộ chỉ huy chiến thuật (bộ tư lệnh vùng?), mỗi bộ này được điều khiển bởi một trung tướng
Cấu trúc của hải quân Ấn Độ
Hải quân Ấn Độ được tổ chức thành các bộ chỉ huy chính và một bộ chỉ huy kết hợp.
Bộ chỉ huy Hải quân phía Đông tại Visakhapatnam
Bộ chỉ huy Hải quân phía Tây tại Mumbai
Bộ chỉ huy Hải quân phía Nam tại Kochi
Bộ chỉ huy kết hợp (Andaman & Nicobar) tại Port Blair
Hải quân Ấn Độ
Tầu sân bay INS Viraat.
Hải quân Ấn Độ, đứng thứ 4 trên thế giới về số nhân lực. Hải quân Ấn Độ có khả năng hoạt động ở vùng nước sâu. Nó tương đối phát triển về mặt kỹ thuật và đã có tầu sân bay. Một vài chiếc tàu sân bay đã được đặt hàng và sẽ tham gia vào lực lượng Hải quân.
Không quân Ấn Độ
Không quân Ấn Độ là lực lượng không quân đứng thứ 4 trên thế giới [3][4]. Trong lịch sử, nó dựa vào kỹ thuật của Liên Xô để phát triển. Gần đây, Ấn Độ đã bắt đầu thiết kế các máy bay riêng, bao gồm các HAL Tejas, là những máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư. Đã có các báo cáo, Nga và Ấn Độ đang lên kế hoạch thiết kế máy bay thế hệ thứ 5. Ấn Độ cũng phát triển UAV ( máy bay không người lái ) tên gọi Nishant và các máy bay trực thăng hạng nhẹ phát triển. Thời gian quan, nó cũng hoàn thành việc kiểm tra tầm bắn của tên lửa không đối không Astra ...
Sức mạnh hạt nhân của Ấn Độ[sửa]
Tên lửa đạn đạo tầm trung Agni-III.
Quân đội Ấn Độ đã sở hữu một số loại vũ khí hạt nhân và chủ yếu được mang bởi các tên lửa và các máy bay chiến đấu. Tuy nhiên, Ấn Độ có một chính sách không sử dụng vũ khí hạt nhân trước.
Quân đội Đức
- on 08:39
- No comments
Quân đội Đức (Deutsches Heer) là tên gọi các lực lượng phối hợp trên đất liền và trên không của Đế quốc Đức, còn được gọi là Quân đội Quốc gia (Reichsheer[1]), Quân đội Đế quốc (Kaiserliches Heer hay Kaiserreichsheer) hoặc Quân đội Đế quốc Đức. Thuật ngữ "Deutsches Heer" cũng được dùng để chỉ Lục quân Đức – thành phần trên bộ của Quân đội Liên bang Bundeswehr của Đức hiện nay. Quân đội Đế quốc Đức được hình thành khi Đế quốc Đức được thành lập vào năm 1871 và tồn tại cho đến năm 1919, sau khi Đế quốc Đức thua trận trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Quân đội Đức đã từng là đội quân lớn nhất và mạnh nhất châu Âu
Quân đội Pháp
- on 08:00
- No comments
Quân đội Pháp có lịch sử lâu đời, ảnh hưởng rộng lớn đến lịch sử Thế giới. Quân đội Pháp gồm lục quân, hải quân, không quân và lực lượng hiến binh quốc gia. Quân đội Pháp là lực lượng bảo vệ an ninh quốc phòng lãnh thổ Pháp, bảo vệ các vùng lãnh thổ có lợi ích của Pháp, góp phần quan trọng duy trì sự ổn định toàn cầu. Tổng thống Pháp là Tổng tư lệnh của quân đội.
Năm 2006, Quân đội Pháp có tổng cộng 779.450 người (lực lượng chính quy 259.050 [2], lực lượng dự bị 419.000 [3], lực lượng hiến binh 101.400 [4]), là lực lượng quân sự lớn nhất Châu Âu và đứng thứ 20 trên thế giới về quân số phục vụ trong quân đội. Tuy nhiên Lực lượng vũ trang Pháp có chi phí quân sự rất lớn, lên tới 60 tỉ USD. Với quân số không lớn, chi phí quân sự khổng lồ, chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu, chế tạo và mua các trang thiết bị phục vụ quốc phòng, nên quân đội Pháp là một trong những lực lượng mạnh và có trình độ kỹ thuật phát triển nhất trên thế giới. Pháp cũng là nước đứng thứ 3 trên thế giới về vũ khí hạt nhân
Các lực lượng vũ trang Pháp gồm có 4 nhánh chính:
Lục quân Pháp (tiếng Pháp: Armée de Terre)"
Bộ binh (Infanterie)
Kị binh (Arme Blindée Cavalerie)
Pháo binh (Artillerie)
Lực lượng Sơn cước Chasseurs Alpins
Lực lượng Lê dương (Légion étrangère) (bộ binh, kỵ binh và công binh)
Lực lượng Thủy quân lục chiến
Lực lượng hàng không hạng nhẹ của Lục quân Pháp (ALAT - Aviation Légére de l'Armée de Terre)
Công binh (Génie)
Thông tin (Transmissions)
Vận tải và hậu cần (Train)
Bảo quản (Matériel)
Hải quân Pháp (Marine Nationale)
Không quân Pháp (Armée de l'Air)
Lực lượng hiến binh quốc gia Pháp (Gendarmerie Nationale).
Học thuyết quân sự của Pháp được dựa trên các khái niệm về nền độc lập quốc gia, ngăn chặn hạt nhân và sức mạnh quân sự. Pháp là thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), hoạt động tích cực với các đồng minh trong NATO đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Ngoài khối NATO, Pháp cũng tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình như ở Châu Phi, Trung Đông, và Balkans, thường nắm vai trò đứng đầu trong các hoạt động này. Pháp cũng thực hiện việc tổ chức lại quân đội để phát triển thành đội quân nhà nghề, có số lượng quân ít hơn, khả năng triển khai quân nhanh hơn, thích nghi hơn cho các hoạt động ở ngoài vùng lãnh thổ đất liền của Pháp. Nhân tố then chốt của việc cơ cấu lại gồm: giảm số người, các cơ sở, các cơ quan....
Các hoạt động gần đây
Hiện có khoảng 36.000 quân lính của Pháp được triển khai ở ngoài lãnh thổ Pháp.
Pháp cùng với Hoa Kỳ và các nước khác, cung cấp binh lính cho lực lượng đóng quân ở Haiti, lực lượng này đã được sự phê chuẩn của Liên Hợp Quốc sau cuộc nổi loạn ở Haiti năm 2004. Pháp cũng gửi các binh lính, chủ yếu là lực lượng đặc nhiệm đến Afghanistan để giúp các lực lượng của Hoa Kỳ và NATO chiến đấu với quân Taliban và Al Qaeda. Một lực lượng khoảng vài nghìn lính Pháp, dưới sự ủy nhiệm của Liên Hợp Quốc (Opération Licorne), đóng quân ở Bờ biển Ngà thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình. Lực lượng vũ trang của Pháp cũng giữ vài trò đứng đầu trong nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc dọc theo biên giới Liban-Israel như là một phần trong hiệp ước ngừng bắn, hiệp ước này dẫn đến việc kết thúc chiến tranh Liban. Hiện nay Pháp có 2.000 quân được triển khai dọc theo biên giới, gồm bộ binh, thiết giáp, pháo binh và phòng không.
Quân đội Anh
- on 07:41
- No comments
Các lực lượng vũ trang của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland còn được gọi là Lực lượng Vũ trang Anh hay Quân đội Anh, gồm có hải quân, lục quân và không quân. Lực lượng vũ trang Anh là một trong những lực lượng quân sự lớn nhất ở Châu Âu, mặc dù chỉ xếp thứ 3 trên thế giới. Quân đội Anh, vào năm 2006 có 429.500 người, trong đó lực lượng chính quy là 195.900 người, lực lượng dự bị là 191.300 người và quân tình nguyện dự bị là 42.300 người. Tuy xếp thứ 3 trên thế giới về quân số nhưng Quân đội Anh có chi phí quốc phòng lớn thứ hai trên thế giới, có vũ khí, trang thiết bị hiện đại bậc nhất do đó Quân đội Anh cũng đựoc xem là một trong những lực lượng vũ trang mạnh nhất trên thế giới. Tổng Tư lệnh của Quân đội Anh là Nữ hoàng Elizabeth II của Anh và quân đội được quản lý bởi Hội đồng Quốc phòng Anh thuộc Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên trên thực tế Thủ tướng Anh nắm giữ quyền lực đối với lực lượng vũ trang.
Quân đội Anh có trách nhiệm bảo vệ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, thúc đẩy việc mở rộng anh ninh cho các khu vực có lợi ích của chính phủ và hỗ trợ các hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế. Quân đội Anh là lực lượng chính hoạt động tích cực trong NATO và các liên minh khác.
Các hoạt động có sự tham dự của Quân đội Anh gồm các cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq (năm 2001 và năm 2003), sự can thiệp vào Sierra Leone (năm 2000), các hoạt động gìn giữ hoà bình ở Balkan và Kypros. Quân đội này có các căn cứ quân sự ở nhiều nước
Hải quân Hoàng gia Anh
Hải quân Hoàng gia Anh là lực lượng lâu đời nhất trong Lực lượng Vũ trang Anh. Từ đầu thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 20, Hải quân Anh là lực lượng hải quân lớn nhất và mạnh nhất trên thế giới, đóng vai trò chủ yếu trong việc thiết lập nên một Đế quốc Anh có sức mạnh vượt trội trong thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Trong Đệ nhị Thế chiến, Hải quân Hoàng gia có khoảng 900 tầu hoạt động. Trong Chiến tranh lạnh, nó đã thay đổi nhiệm vụ chính, trở thành lực lượng chống tầu ngầm, chống lại các tầu ngầm của Liên Xô. Khi Liên Xô tan rã, vai trò của nó trong thế kỷ 21 đã trở lại như ban đầu và tập trung vào hoạt động chủ yếu ở các vùng nước sâu trên toàn cầu.
Hải quân Hoàng gia Anh hiện nay, xét về trọng lượng của các hạm tầu, là lực lượng hải quân lớn thứ 2 trong NATO. Hải quân Anh hiện có khoảng 91 hạm tầu đang hoạt động, gồm các tầu sân bay, tầu ngầm hạt nhân, các tầu chống mìn và các tầu tuần tra.
Không quân Hoàng gia Anh
Không quân Hoàng gia Anh (Royal Air Force - RAF) là lực lượng không quân thuộc Quân đội Anh. Không quân Hoàng gia được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1918 và đã đóng vai trò quan trọng trong lịch sử quân sự Anh, chiếm một vị thế cao trong Đệ nhị thế chiến và trong các cuộc xung đột như Chiến tranh Iraq. Không quân Hoàng gia có 998 máy bay và 48.700 người (năm 2006).
Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của Không quân Hoàng gia Anh là "Tác chiến trên không, tạo cho lực lượng không quân chiến thắng nhanh chóng, đối phó được với các thách thức hiện nay; luôn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ tiếp theo; làm việc trong lực lượng lượng quốc phòng để gánh vác các nhiệm vụ chung khác."
Điều này hỗ trợ cho mục đích của Bộ quốc phòng Anh "đảm bảo an ninh và bảo vệ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và các vùng lãnh thổ thuộc Anh, bao gồm cả việc chống lại sự khủng bố; hỗ trợ cho chính sách đối ngoại của Chính phủ Anh để thực hiện mục đích thúc đẩy hoà bình và an ninh quốc tế.
Không quân Hoàng gia Anh là lực lượng không quân lâu đời nhất trên thế giới. Nó được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1918 trong Đệ nhất Thế chiến bởi sự hợp nhất của các quân đoàn không quân hoàng gia và lực lượng phục vụ không quân - hải quân hoàng gia.
Cấu trúc của Không quân Hoàng gia
Bộ Không quân Anh
Bộ Tư lệnh Không quân Anh
Liên đoàn bay số 1
Liên đoàn bay số 2
Liên đoàn bay số 22
Liên đoàn bay số 83